Chân tướng
Mật Tông Tây Tạng

Phật giáo Tạng truyền thật sự là Giác Nãng Ba, hoằng dương diệu pháp Như Lai Tạng Tha Không Kiến, hoàn toàn phù hợp với giáo nghĩa Phật giáo. Tứ đại giáo phái Hồng, Hoàng, Hoa, Bạch là Phật giáo Tạng truyền giả, tất cả các pháp nghĩa của họ đều không phù hợp với giáo nghĩa Phật giáo, cho nên là tà giáo, tà pháp.

III. LỜI KẾT

 

Đọc lại lịch sử Mật giáo Tây Tạng, chúng ta thể phát hiện thấy, từ tạp Mật cho đến thuần Mật, rồi đến thượng Yoga, là quá trình từng bước loại bỏ Phật giáo chính thống (Hiển giáo) chuyển dần sang “phái Tính Lực quỷ thần của Ấn Độ, cuối cùng bị Mật giáo hóa hoàn toàn. Trong quá trình đó còn pha tạp một phần lớn tín ngưỡng nghi lễ của Bôn giáo (cúng tế, nhảy thần, bói toán, giải hạn). Bắt đầu từ truyền thuyết La Thoát Thoát Nhật Niên Tánthiên giáng thần vật[1], trải qua quá trình thu nhận Phật pháp (chủ yếu Mật pháp của Phật giáo) của Tùng Tán Can Bố, những vật phẩm Phật giáo [2] công chúa Xích Tôn của Nepal (tuyên xưng hóa thân của Phẫn Nộ Độ Mẫu) công chúa Văn Thành của Đại Đường đem đến hoàn toàn khác nhau. Cuối cùng, Xích Tùng Đức Tán trước sau nghênh thỉnh Tịch Hộ Liên Hoa Sinh vào Tây Tạng. Hai người này, một kẻ phàm phu theo Lục thức luận [3] của Trung Quán phái Tự tục, một người là Ma pháp của Mật giáo. Muộn hơn một chút nữa sự thịnh hành của Thiền tông sai lầm của Ma Ha Diễn người Đường, tuy chùa Tang Da “tranh cãi về Đốn, Tiệm[4] nhưng các tăng Thiền tông sai lầm đã thất bại. Học thuyết của Tịch Hộ (Liên Hoa Giới) chú thuật của Liên Hoa Sinh đã thống ngự toàn diện tôn giáoTây Tạng. Trung Quán, Mật pháp Thiền tông được truyền thụthời kỳ đặt nền móng của Phật (Mật) giáo Tây Tạng, về bề ngoài tuyPhật giáo, nhưng trên thực tế những tri kiến đã bị bóp méo, giải thích sai lầm, đã tách rời khỏi chính pháp của Như Lai. Huống hồ lại còn thu nạp thêm cả vu thuật (thuật đồng cốt phù thủy) của Bôn giáo.

 

Sau khi thành lập cáctông phái của Mật giáo giai đoạn sau này lại xuất hiện các loại thiên kiến, nhận định riêng, cáctông phái đã sáng tácạt sách luận của tông phái mình đồng thời tiến hành phán xét các giáo phái khác trên sở giáo của tông phái mình, nâng cao hạn giáo pháp quả chứng của phái mình. Ngoài ra, các tông phái này còn tranh giành lẫn nhau về quyền chấp chính quyền truyền giáo, đặt tâm trí vào vòng lợi ích của thế tục pháp, thậm chí thế trụy lạc, tha hóa. Tuy trải qua quá trình xây dựng chính kiến củaphái Giác Nãng cải cách cách thực tu song thân pháp củaTông Khách Ba, song trời không bảo hộ cho Tây Tạng. Phái Giác Nãng bị thất bại đến mức bị bức hại bị trục xuất, cònTông Khách Ba lại ngộ nhận kiến giải tầm thường của phàm phu Trung Quán phái Ứng Thành là “Liễu nghĩa. Nói tóm lại, trong quá trình phát triển trường kỳ dưới điều kiện tiên thiên (bẩm sinh) không toàn diện, hậu thiên mất cân bằng, các tôn giáovùng Tây Tạng trước sau cũng chỉ lướt qua vai của Phật pháp (Hiển giáo) chính thống đi, bỏ lỡ mất nhân duyên huân tập chính pháp rơi vào trong tín ngưỡng quỷ thần văn hóa chú thuật sùng bái tình dục. Trải qua hết đời này đến đời khác bị dẫn dắt sai lầm, cộng nghiệp giữa các bên càng ngày càng sâu nặng, đến nỗi khách chiếm chỗ chủ, hiển dương Mật giáo hạ thấp Hiển giáo (Phật giáo Đại thừa chính thống) như kiểu ăn mày đuổi thủ từ miếu vậy, lấy Mật giáo thay thế cho Phật pháp. Điều này không những tránh xa Phật quang phổ chiếu còn tệ hại hơn nữa hủy báng công đức của chính pháp. Còn cái gọi lục tự chân (vọng) ngôn cuốn kinh (giả) dựa vào đã được đóng gói, điểm, hoằng truyềnTây Tạng trong hoàn cảnh tôn giáo loạn thần, quái dị này, dẫn đến dẫn dắt sai lầm cho chúng sinh.

 

Cuối cùng, xin được đưa ra một số đoạn văn cái nhìn chính xác vềMật giáo chú ngữ Mật giáo trong các tác phẩm của Hội đồng tu Chính Giác Phật giáo, xin hãy đọc kỹ, thể bỏ quy chính, theo lành tránh dữ:

 

Cái Tâm được nói trongBát Nhã ba la mật đa Tâm kinh “U tánđều chỉ cái Tâm Tự tính thanh tịnh. Tâm này Tâm chân thực không ảo, là Tâm không sinh không diệt, thể xác của tựa như không, tính của như Kim Cương, là cái Tâm vi mật khó nhìn thấy lạitrinh, thựckhông ai thể làm hoại đượcTất cả mọi hiền thánh cho đến chư Phật tam thế thị hiện trong tam giới đều ngộ được cái Tâm Kim Cương Bát Nhã này, đều ngộ được cái Tâm Thực Tướng này sinh ra trí tuệ, từ đó đạt được cái pháp đáo bỉ ngạn (sang bờ bên kiađược giải thoát). Cho nên mới nóiBát Nhã ba la mật đa Tâm kinh” là Đại thần chú, là Đại minh chú, là thượng chú, là đẳng đẳng chú. (Trích từGiả Như Lai Tạng, trang 254, do Tổ pháp nghĩa của Hội cộng tu Đài Nam thuộc Hội đồng tu Chính Giác Phật giáo viết).

 

Nếu như để giành được lợi ích thế gian, “như cầu cảm ứng đuổi quỷ…” thì dùng các pháp trì chú sẽ tác dụng. dụ theo nhưĐại Nhật kinh cáckinh điểncủa Mật tông nói thì trì chú thể giành được rất nhiều ích lợi về mặt pháp thế gian. Việc vận dụng những mật chú thủ ấn theo nhữngkinh điểnMật tông tạo ra tuy thể giành được rất nhiều lợi ích theo pháp thế gian song cũng cần biết rằng các vịPhật Bồ tát” ở đó kỳ thực phần lớn đều là do quỷ thần biến hiện, còn những cái Phật Bồ tát thực sự thuộc Phật giáo thị hiện ra rất ít. Những pháp trong pháp giới quỷ thần cũng giống như những giao dịch trong nhân gian: nếu bên này bỏ ra nỗ lực cho người, hoàn thành những nguyện vọng của người cầu cúng thì cũng mong cầu sự báo đáp của người đó. Cho nên, quỷ thần cũng xem nhân duyên đòi hỏi sự báo đáp của người. Nếu như khi quỷ thần muốn sự báo đáp, người lại không thể đáp ứng đủ, thỏa mãn nhu cầu của thì quỷ thần sẽ thường tìm cách quấy nhiễu, khiến cho tâm thần gia trạch của người đó không thể yên ổn. (Trích từ cuốnCuồng Mật chân Mật tập 1 trang 181 của đạo Bình Thực, nhà xuất bản Chính Trí).

 

Trì chú không thể khiến cho người ta giành được những quả chứng về mặt Phật pháp, trì tụng những câu chú theo kinh điển Mật tông cũng không thể tiêu trừ được trọng tội phỉ báng Tam Bảo. (Trích từ cuốnNguy của Phật giáo trang 163 của đạo Bình Thực, Hội Đồng tu Chính Giác Phật giáo).

 

Mật tông thời kỳ đầu chỉ tôn giáo trì minh chú (niệm chú để cầu thần Hộ pháp cảm ứng trừ tai ương) bám víu vào Phật giáo để tồn tại, vốn không phải Phật giáo. Sau này, do trường kỳ sử dụng những thủ đoạn sùng Mật giáo đè Hiển giáo, dần dần khách chiếm chỗ chủ, thay thế vị trí của Phật giáo chính thống, trở thành người đại diện cho Phật giáo. Những người theokhẩu Mậtnói rằng trì tụng chân ngôn theo những câu chú Mật kinh thời kỳ đầu tạo ra để cầu Phật Bồ Tát thần Hộ pháp giúp họ gia trì, mong cầu bình an hoặc khi tu học Phật pháp thể giảm bớt đi một số trở ngại. Những người tu trì như vậy, lấy pháp Kim Cương niệm tụng để tự tu, không cần cho người khác biết, cho nên gọi là “khẩu Mật”… Chính sự tu chứng của Mật giáo rất thô thiển, nên khó thể đi sâu vào chính của Phật pháp. tham muốn chuyện tranh chấp dài ngắn với Hiển giáo đã thu nhận những tưởng của phái Tính Lực ngoại đạo, vừa mật không cho người khác biết lại vừa thổi phồng lên thành Mật pháp cao hơn thể khiến cho người ta thểtức thân thành Phật”, trùm đầu người khác. Chính thế dẫn đến việc về sau Mật giáo trong Phật giáo đã biến khách thành chủ (chiếm chỗ), xuất hiện những sự thực lịch sử pháp ngoại đạo thâm nhập soán chỗ của Phật giáo chính thống, khiến cho Phật giáođây (Tây Tạng) bị diệt vong. (Trích từCuồng Mật Chân Mật tập 4 trang 1282 của đạo Bình Thực, nhà xuất bản Chính Trí).

 

Rất nhiều pháp như tên kinh, lời chú, thủ ấn thân ấn do họ (Mật giáo) nói đều thuộc pháp quỷ thần. Mật tông vốn pháp dựa vào thần Hộ pháp của Phật giáo. những người trong Mật tông yêu thích pháp hữu vi, nên đã tu luyện pháp hữu vi do thần Hộ pháp truyền lại, sau này lại lấy sai truyền sai (tam sao thất bản), biến thành pháp của thần Hộ pháp lại còn cao hơn cả pháp của Phật. Kết quả biến thành Mật giáo của thần Hộ pháp. Sau này lại còn biến thành khách chiếm chỗ chủ, sáng tạo ra “Kim Cương Trì Phậtthay thế cho địa vị của Phật Thích Ca. Phật giáo của Thiên Trúc đã bị tiêu diệt như vậy, biến thành Lạt Ma giáo, đã không còn hình hài của Phật giáo nữa. (Trích từ cuốn kiến Phật pháp trang 96 của đạo Bình Thực, Hội đồng tu Chính Giác Phật giáo).


[1] Chú thích của người dịch: Vật thần thánh t trên trời rơi xuống.

[2] Những vật cúng phẩm trongĐại Chiêu tự” - ngôi tự viện đầu tiên của đất Tạng : 11 tượng Quán Thế Âm Bồ Tát tạc theo tướng của Tùng Tán Can Bố; tượng Thế Tôn bất động Kim Cương Phật (Tượng Thích Ca Mâu Ni 8 tuổi), tượng Phật Di Lặc pháp luân, tượng Chiên đàn Độ mẫu các cuốn kinhBảo khiếp trang nghiêm kinh”, “Kinh bộ bạch liên” do Xích Tôn công chúa của Nepal đem đến. Ngoài ra, các thợ của Nepal ở Thổ phiên đã tạc tạo nên các thần tượng như Thế gian tự tại, Phẫn nộ Độ mẫu, Thánh cứu Độ mẫu, Diệu âm Tiên nữ, Cát tường đầu minh vương cả Long vương, La Sát, Dạ Xoa, Đại hắc thiên, Cát tường thiên nữXem tại cuốnPhật giáo Thổ phiêncủa Nãi Tạng Gia, trang 29-32. Tất cả đều Mật giáo thời kỳ cuối tưởng đã chín muồi rồi.

[3] Chú thích của người dịch: Phật giáo chủ trương Bát thức luận, nhưngđây phái Lục thức luận, chỉ chấp nhận ý thức con người cao cấp nhất.

[4] Chú thích của người dịch: Tức phép tu Đốn ngộ (ngộ đạo ngay lập tức tại chỗ) Tiệm ngộ (ngộ đạo dần dần từng bước).


Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 0