Phật giáo Tạng truyền thật sự là Giác Nãng Ba, hoằng dương diệu pháp Như Lai Tạng Tha Không Kiến, hoàn toàn phù hợp với giáo nghĩa Phật giáo. Tứ đại giáo phái Hồng, Hoàng, Hoa, Bạch là Phật giáo Tạng truyền giả, tất cả các pháp nghĩa của họ đều không phù hợp với giáo nghĩa Phật giáo, cho nên là tà giáo, tà pháp.
Tiết 6: Bản chất của Kim Cương bộ chủ bị điều khiển trong pháp Tru
Khi các thày Mật tông tu pháp Tru, “Kim Cương bộ chủ” được sai khiến đi sát hại chúng sinh kỳ thực chỉ là các thành phần như sơn tinh, quỷ thần, dạ xoa, la sát…- vì chúng chỉ yêu thích các đồ ăn là thịt sống có lẫn máu tươi và các vật bất tịnh như dâm dịch. Khi chúng gặp các long thiên hộ pháp chư Bồ Tát bên cạnh chúng ta, chúng chỉ có thể cung kính lễ bái mà thoái lui, đều không thể làm được gì cả. Vì sao vậy? Vì đám “Kim Cương bộ chủ” này đều chỉ thích những đồ ô uế bất tịnh, thích ăn máu tươi sống, chỉ là những quỷ thần có địa vị cực thấp trong Dục giới. Hành giả Mật tông nếu tu pháp Tru để sai phái “Kim Cương bộ chủ” đi nơi xa giết hại chúng sinh, thì đều phải dùng cá tươi, máu tươi, thịt bò dê có lẫn máu, ngũ tân, dâm dịch, rượu…để cúng dường cho họ, sau đó mới vui vẻ thực hiện. Vì vậy, từ xưa đến nay, Mật tông thường vì chuyện “liệu có bắt buộc phải cúng dường bằng các vật bất tịnh như thế này hay không” mà sinh ra những ý kiến khác nhau:
“Tôn giả Đa Kiệt từ bi vô cùng, tùy thuận chúng sinh, cũng đã từng thay đổi quy định đã đặt ra, bằng hành động đẹp tôn trọng phong tục ăn chay của người Hán, đã chú thích mục “Thiết cúng” trước trang 1 trong cuốn “Đãng kim xác gia niệm tụng pháp” thuộc Hộ Pháp bộ đệ nhị rằng: ‘Thịt chó, thịt bò, đồ ngũ tân đổi sang dùng chay càng tốt’. Sau đó, ở chỗ “cá tươi, máu tươi, thịt dê bò có lẫn máu, ngũ tân, rượu” lại chú thích thêm rằng: ‘Đổi sang cúng bằng rau chay, không cúng cũng được’. Rốt cùng cúng thịt, rượu, máu, tỏi..là tùy thuận theo bản tính của Hộ pháp, cúng chúng thì có thể được cảm ứng, không cúng thì không dễ cảm ứng. Cúng mà không thuận theo bản tính họ, thì sẽ không khiến họ hoan hỉ. Đối với đại Hộ pháp đã chứng ngộ Không tính, có thể miễn giảm cơn phẫn nộ, tăng cường trừng phạt của họ. Đối với các đại lực quỷ, dạ xoa…chưa chứng ngộ Không tính, có thể bị họ báo thù. Vấn đề này thuộc về bí mật của nhân duyên. Hành giả sau khi học tập, lĩnh hội được triết lý bí mật duyên khởi trong định, có thể suy luận mà biết. Không được vì “không phân biệt chay mặn, chư pháp bình đẳng bí mật pháp tính trong định pháp căn bản” mà bỏ qua nó. Ví dụ việc mời khách, khi mời người ăn mặn, thì tất phải cung cấp đồ mặn; khi mời người ăn chay thì tất phải cung cấp đồ chay, như thế thì ai nấy đều được toại nguyện, ai nấy tận khả năng của mình, để báo đáp thành ý của chủ nhân. Nay cúng Hộ pháp, vốn là mong được họ bảo vệ, nếu cúng thứ mà họ không thích, thì làm sao cảm ứng được họ để có công đức báo đáp đây? Xưa có người ăn chay, mà nhờ ta cúng lửa làm pháp Hoài, thấy ta mua hải sâm bào ngư, cốt lấy hình tướng bí mật duyên khởi của nó – tương tự sen chùy (có hình dạng giống với bộ phận sinh dục của nam nữ). Giá chúng rất đắt, vượt qua dự toán ban đầu, ta bèn lấy (tiền) trong túi của mình để bù vào, nhưng ông ta vẫn phản đối, nhấn mạnh rằng ông ta ăn chay, không chấp nhận cúng những đồ vật đó. Ta đáp rằng: ‘Những đồ cúng mà bọn ta chuẩn bị, ném vào trong lửa, cúng Cổ lỗ Cổ lỗ, y vốn ăn thịt, chứ không ăn chay. Tiên sinh ăn chay là sự từ bi của chính tiên sinh, nếu như sau này tiên sinh chết mà thành thần, ta tự biết mà cúng bằng đồ chay’. Ông ta vẫn kiên quyết hủy bỏ. Ta bèn đổi phương pháp: Mua tiếp đồ ăn hình tròn bảy tầng, bên trong có chất đường màu trắng, tương tự như tinh tủy (giống như tinh dịch), bên ngoài không chỉ giống chùy (giống hình dương vật nam giới), lại có các hình dạng lớn nhỏ đẹp mắt. Rồi lại mua thêm đồ thực phẩm hình thuyền, khoang thuyền mở ra, như thịt cửa hoa sen (như hình âm hộ mở ra), bôi nước tương anh đào màu đỏ, cực kỳ giống với liên cung màu máu (cực giống âm đạo người nữ có màu máu). Hai vật này đều không có thịt, nhưng cực kỳ giống với sen chùy, phương tiện biến thông như thế đấy. Thế nhưng nói theo duyên khởi, thì tuy hình dáng nó giống, nhưng chất bên trong lại có sự khác biệt lớn. Hải sâm có tính tráng dương, bào ngư có tính bổ máu, không phải là tính mà hai đồ ăn kia có thể thay thế. Nay đổi sang dùng đồ chay, thuần đến mức nói không dùng cũng được, song không tránh khỏi việc quá thuận lòng người mà sơ suất với việc cảm ứng thần” (34-219~220).
Theo như ví dụ trên, có thể thấy rằng “Kim Cương bộ chủ” được mời hoặc được sai khiến trong bốn pháp Tức, Tăng, Hoài, Tru kỳ thực chỉ là các loài sơn tinh, quỷ mị, dạ xoa, la sát…vì thông qua những đồ vật mà chúng ăn thì cũng thể hiện được bản tính của chúng rồi. Thậm chí thông qua những hình tượng mà “Kim Cương bộ chủ” đó thị hiện, cũng có thể chứng tỏ được thuộc tính ma quỷ của chúng rồi, chỉ có các hành giả Mật tông ít học tự mình ngu mê nên không biết gì mà thôi. Nay nêu ra ví dụ thực tế về thân tướng của Hách Lỗ Hát để cho họ biết:
“Cuốn ‘Thiện thệ tập hội’ nói rằng: ‘Sắt năng thắng, khôi giáp tự tại, báo mãnh thú, kim cương biến hóa, rắn hung bạo, hổ hung mãnh, da người uy quang, khôi giáp hung mãnh, sư tử đại lực, gấu mãnh bạo, tổng cộng mười áo. Ngoài ra, hơi có sự khác biệt, cuốn ‘Mã đầu Tam giới du hý yếu dụng quán đỉnh’ nói: ‘Áo da hổ sắc bén thiền định dũng mãnh, áo sắt bộ chùy giao nhau hung bạo, áo căn dặn kim cương thiền định trí tuệ, áo uy quang khôi giáo đỏ lửa tự tại, áo trang nghiêm rắn đen sợi mềm dũng uy, áo răng sói thiền định ăn uống tự tại, áo dải lụa đỏ xanh da lông kim cương, áo da báo hung bạo năng nhiếp mãnh thú’, gọi là tám giải thoát.
Trong tám bó bọc thi lâm khoác ba áo: đại diện thập lực phá hủy tướng ngu si là da vai con voi, đại diện Bồ Đề tâm phá diệt tướng tham dục là dây lưng da người, phá hủy tướng sân si bằng sự nghiệp anh dũng mãnh liệt là quần da hổ.
Đeo hai đồ trang sức: Trang sức rắn là kẹp tóc của chủng tính bạch Sát đế lợi, rồng vàng là hoa tai đại diện cho chủng tính Phệ xá ly, rồng đỏ là hai bộ xích và dây chuyền đeo cổ của chủng tính Bà La Môn, rồng lục là dây lưng và anh lạc của chủng tính Thú đà la, rồng đen là vòng xuyến của chủng tính Chiên đà la.
Trang sức xương đầu là đỉnh nghiêm của năm bộ đầu lâu, 50 đầu lâu nhỏ máu tươi làm anh lạc, mảnh vỡ xương đầu làm trang sức vai.
Bôi ba đồ trang sức: Trên trán dùng vôi cục; hai bên gò má và đầu mũi bôi máu và Minh điểm; hầu bôi son dầu. Hoặc có chỗ nói trên hai gò má và trán dùng máu và Minh điểm, hoặc nói giữa hai mày bôi máu và Minh điểm, còn dưới hàm thì bôi son dầu. Sau 8 thứ này lại thêm trí tuệ hỏa tụ và kim cương dực, cộng lại là mười bộ…
Sáu đồ trang sức bằng xương dựa theo phương tiện là chính gồm: Trên đỉnh buộc đồ tán phát, 32 xương võng mục chế thành lưới, hầu có 16 xương võng mục chế trang sức cổ, trước ngực sau lưng đeo anh lạc 102 xương bên tóc mai, hoặc trên quần da hổ dài đến hạ thân đeo lưới chế bằng 64 xương võng mục dưới da ngực, cườm tay đeo vòng xương, xuyến xương tổng cộng 6 loại; hoặc có vòng xuyến tập hợp thành một, lại thêm hoa tai là 6 loại, đại diện cho lục Ba la mật.
Lại có thuyết nói trên hai vai trái phải đeo hạt châu bằng xương, trên vú đeo cốt liên, lưng đeo cốt chùy, vai khoác cốt luân, lưng đeo nút cát tường bằng xương, rốn đeo chùy giao nhau bằng xương, tổng cộng 6 loại” (158-241~245).
Hách Lỗ Hát có địa vị cao quý không gì so sánh nổi trong Mật giáo còn như thế, thì các loài dạ xoa, la sát, quỷ mị, sơn tinh…nhận đồ cúng dường máu thịt rồi đến các nơi tru sát chúng sinh hình dáng thế nào là có thể biết rồi. Vậy thì vì sao những người đại tu hành thượng thượng căn khí, vượt xa Hiển giáo trong Mật tông kia lại không hề hay biết bọn chúng đều là đám đám hung thần ác sát thế? Các hành giả Mật tông khi còn sống thường đánh bạn với đám hung thần ác sát này, cùng tạo các nghiệp, sau này khi xả báo, lẽ nào lại thực sự muốn đứng cùng hàng ngũ với đám hung thần ác sát đó, làm cùng một chủng loài với chúng? Vô trí đến mức độ đó! Tôi lẽ nào không có lòng bi mà che dấu sự thật? lẽ nào không có lòng bi nói cho họ biết để mà tránh xa? Cho nên, phàm những sự thực như thế này, đều phải phơi bày ra cho đúng sự thật, để tất cả các thượng sư và người học trong Mật tông kia đều được biết.
Phàm là các thần Hộ pháp trong Phật pháp đều đã ăn chay, thậm chí cho đến các dạ xoa, la sát, quỷ mẹ con thích ăn máu thịt nhất, một khi đã quy y Tam Bảo, thì Phật cũng cấm chúng ăn thịt, huống hồ là các thần Hộ pháp gánh vác trách nhiệm trọng đại lại có thể tiếp tục ăn máu thịt tươi? Qua đó có thể biết Kim Cương bộ chủ mà Mật tông cúng dường đều là thuộc loài quỷ thần, không phải là thần Hộ pháp thực sự trong Phật giáo. Việc này đều được ghi chép trong các cuốn “Kinh Lăng Già”, “Kinh Lăng Nghiêm”, không phải là do tôi thổi phồng lên. Các thày và những người học của Mật tông lẽ nào lại không biết, mà vẫn đánh bạn với đám hung thần ác sát đó, cùng họ cộng nghiệp? Toàn là những người vô trí cả. Bởi lẽ ngay cả các quỷ thần, dược xoa (dạ xoa) đã quy mệnh Tam Bảo đều tuân theo lời Phật dạy mà ăn chay cả rồi, còn những quỷ thần vẫn thích ăn máu và thịt chúng sinh thì chắc chắn không phải là những chúng sinh đã quy y Tam Bảo.
Lại nữa, hành giả Mật tông thường nói về sự thù thắng của pháp Tru như sau: “Tru diệt đoạn tuyệt: phá hủy, khu trục, tru sát, câu chiêu quân địch…Trong các thành tựu tối thắng, bốn sự nghiệp đặc biệt thù thắng là: dập tắt nghiệp hoặc và việc tàng chứa cấu bẩn, tăng cường công đức giáo chứng, hoài nhiếp giải thoát và tất thảy trí tuệ. Sau khi đã chứng tru chính mình, thì tru kẻ khác bằng lòng từ bi, có đầy đủ tất thảy công đức tự tại, thần thông, tổng trì, biện tài…” (158-403).
Thế nhưng, nếu pháp Tru quả thực có thể diệt ma và phá hủy quân địch như trong Mật tục và Mật kinh đã nói, thì lẽ ra “Phật giáo thời kỳ cuối – Mật tông” của vương triều Ba La ở Thiên Trúc không nên bị tiêu diệt bởi tay của quân đội quốc gia Hồi giáo mới phải, các nhà đại tu hành Tạng Mật của “Phật giáo” Trung Quốc càng không nên bị trục xuất khỏi Trung Quốc mới phải. Qua đó có thể thấy rằng đám quỷ thần bị Mật tông tu pháp Tru sai khiến kia kỳ thực chỉ là đám sơn tinh, quỷ mị có cấp bậc cực thấp mà thôi. Pháp Tru như thế, vốn là thứ thương thiên hại lý, còn không thể cầu được sự trợ giúp của thiên nhân, huống hồ có thể cầu được sự giúp đỡ của chư Phật Bồ Tát đại từ đại bi ư? Huống hồ có thể cầu được sự hỗ trợ của thần Hộ pháp tôn trọng Phật giới ư? Thế mà các thày Mật tông tự rêu rao rằng có được pháp Tru thù thắng này để lòe Hiển giáo, để khinh miệt Hiển giáo không có pháp này? Thật quả đúng là một thứ tôn giáo điên đảo!
Lại nữa, các thày Mật tông thường nói: có thể tru ma, thậm chí là hàng ma bằng pháp Tru này. Thế nhưng, quan sát thân tướng các “thần Hộ pháp” bị pháp Tru của Mật tông sai khiến, lại xem xét những hành vi mà họ thực hiện cũng như những đồ vật cúng họ nhận được, có thể chứng minh bản thân các “thần Hộ pháp” bị pháp Tru của Mật tông sai khiến kia cũng chỉ là đám ma quỷ giả mạo thần Hộ pháp của Phật giáo mà thôi. Bản thân vốn là dòng ma thân ma, thì phải biết rằng tuyệt đối không thể nào hoại diệt ma thật sự được. Như thế mà nói là hàng ma, thực ra chỉ là những lời lẽ vô nghĩa. Những hành vi muốn hàng ma kia thực chất cũng chỉ là hành vi vọng tưởng mà thôi.
Từ các chính lý trên, nói các thượng sư Mật tông muốn tu pháp Tru để tru sát người khác, quả thật là thứ pháp ảo tưởng, các quỷ thần được sai phái đại đa số đều không thể nào hoàn thành được nhiệm vụ của mình. Thậm chí, khi quỷ thần tiến đến trước mặt đối tượng mà họ cần tru sát, phát hiện người mà mình đối mặt là đại Bồ Tát hoặc đại Hộ pháp, thì chỉ có tự chuốc lấy nhục, không một việc nào có thể thực hiện được, thì tất sẽ đại sinh sân hận đối với các thượng sư Mật tông tu pháp Tru, quay trở về báo thù những kẻ tu pháp Tru kia nhằm trút hết oán hận. Cho nên, các thượng sư Mật tông muốn tu pháp Tru tất phải suy xét cho kỹ lưỡng, cân nhắc cẩn thận để tránh tự chuốc lấy họa.
Tru sát người khác xong, việc muốn tu pháp Thiên thức để dời chuyển Căn bản thức của người chết vãng sinh thế giới Cực Lạc, cũng là pháp hư vọng tưởng, làm gì có năng lực để di dời Căn bản thức của người chết đây? Vì sao vậy? Vì các thày Mật tông còn không biết, không chứng được Căn bản thức của mình, huống hồ là có năng lực di chuyển Căn bản thức của người bị tru sát? Tuyệt không thể có cái lý ấy!
Cứ cho là có thể tu được pháp Tru đó, thực sự có thể sai khiến được quỷ thần đến giết người khác đi, thì tâm họ hiểm ác như vậy, tuyệt đối không phải là hành vi của người học Phật nên làm. Còn pháp Thiên thức của Mật tông kia đã là thứ vọng tưởng, không hề có khả năng di dời Bản thức của người bị giết vãng sinh Cực Lạc, thì các thượng sư Mật tông kia sau khi tru sát người khác xong, nói dùng pháp Thiên thức quán tưởng Căn bản thức của người bị giết đi vãng sinh thế giới Cực Lạc, gọi đó là kẻ từ bi sẽ thành vô nghĩa. Pháp vô nghĩa như vậy, các hành giả Mật tông nên biết mà tránh xa, đừng có tiếp tục bị họ mê hoặc nữa.
Lại nữa, cho dù thượng sư Mật tông quả thực có khả năng sai khiến quỷ thần đi giết người khác đi chăng nữa, thì khi các quỷ thần đó đi tru diệt các Bồ Tát nhân gian hoằng truyền chính pháp, chắc chắn chưa đến gần được họ thì đã nhìn thấy các thần Hộ pháp rồi. Bọn họ chỉ là các quỷ thần có cấp bậc cực thấp (vì còn tham ăn các vật bất tịnh như máu thịt hôi tanh và dâm dịch…), nếu nhìn thấy các thần Hộ pháp chính pháp, nhìn thấy uy đức thần lực của thần Hộ pháp hoặc Bồ Tát hộ pháp, nhất định sẽ nhanh chóng vắt chân lên cổ chạy về, không thể làm gì nổi các Bồ Tát nhân gian hoằng truyền chính pháp. Phàm đã là các Bồ Tát nhân gian hoằng truyền chính pháp, nhất định sẽ có các thần Hộ pháp ở bên cạnh hộ trì, đó là chỗ mà các thần Hộ pháp tích cực tích lũy công đức pháp tài, không ai dám lơ là việc bảo vệ.
Lại nữa, tầng thứ hoằng truyền chính pháp càng cao, thì cấp bậc của thần Hộ pháp cũng càng cao lên theo, uy lực càng lớn, thậm chí có lúc còn do đại Bồ Tát đứng ra hộ trì. Những việc này đều là sự thật, trong các bạn đồng tu của Hội chúng tôi cũng có nhiều người vì các nhân duyên khác nhau mà nhìn thấy rồi. Cho nên, thượng sư Mật tông tuy có sân hận mà tu pháp Tru, muốn gây bất lợi cho tôi, ngược lại còn khiến quỷ thần bị sai khiến không vui, ngược lại còn phải chịu khổ nữa. Vì các quỷ thần bị họ sai khiến, muốn giết người khác mà không thể thành công, tự chuốc lấy nhục, tất sinh lòng sân hận với chính người tu pháp Tru đó.
Lại nữa, các thày Mật tông và trong Mật tục đều nói người tu pháp Tru có thể tru diệt phiền não của mình để sinh ra trí tuệ, thế nhưng hiện kiến thấy tất cả các thượng sư và người học Mật tông từ xưa đến nay ở Thiên Trúc, Tây Mật lẫn Đông Mật, không có lấy một ai thực sự có thể diệt trừ được phiền não “Ngã kiến và Ngã chấp” của mình; cũng không từng thấy bất cứ một thượng sư hay người học Mật tông nào từ xưa đến nay chứng được Như Lai Tạng mà sinh khởi trí tuệ Bát Nhã; càng không thấy có ai chứng được Chủng trí và thông đạt Duy Thức (vì đều hiểu sai về tăng thượng huệ học của Duy Thức). Qua đó có thể chứng minh rằng pháp tru diệt phiền não Ngã kiến của Mật tông thực chất chỉ là vọng tưởng, không phải là Phật pháp thật sự.
Ở đây xin được khuyên khắp tất thảy các thượng sư, người học của Mật tông: Bốn pháp Tức, Tăng, Hoài, Tru đã là pháp tà trái, hoang đường thì nên mau chóng tránh xa vọng tưởng tà pháp của Mật tông, quay về với Hiển giáo, tu học đạo Phật Bồ Đề chân chính, tu học đạo Giải Thoát thực sự, thì mới là những người có trí tuệ.
(Hết tập 3. Tất cả có 4 tập, hoàn thành bản thảo ngày 5/1/2002, nhuận văn hoàn thiện vào 3 giờ 30 phút sáng ngày 9/2/2002).
Lượt xem trang: 0