Chân tướng
Mật Tông Tây Tạng

Phật giáo Tạng truyền thật sự là Giác Nãng Ba, hoằng dương diệu pháp Như Lai Tạng Tha Không Kiến, hoàn toàn phù hợp với giáo nghĩa Phật giáo. Tứ đại giáo phái Hồng, Hoàng, Hoa, Bạch là Phật giáo Tạng truyền giả, tất cả các pháp nghĩa của họ đều không phù hợp với giáo nghĩa Phật giáo, cho nên là tà giáo, tà pháp.

Tiết 3: Hồng Bạch Hoa giáo đều ngộ nhận Ý thức là Như Lai Tạng

Các phái khác ngoài phái Cách Lỗ của Mật tông tuy không phủ nhận Thức thứ tám, nói rằng có A Lại Da thức, thừa nhận Thức thứ tám A Lại Da là Chân Thực Tâm Như Lai Tạng, đồng thời còn nói đã chứng được A Lại Da thức, thế nhưng họ đều sai lầm cho rằng Ý thức (ở trạng thái) nhất niệm bất sinh là A Lại Da thức, hoặc coi Minh điểm do quán tưởng mà thành là A Lại Da thức. Sự thực này, có thể thấy rải rác trong các Mật tục do các thượng sư Mật tông cổ kim sáng tác, nhiều không kể xiết. Nay tôi lấy nội dung trong cuốn “Trát mạc nang đôn – Thậm thâm nội nghĩa” do Đế sư triều Minh Nhượng Tưởng Đa Kiệt truyền dạy, Thân Tôn Nhân Ba Thiết (tiền kiếp của Bối Lỗ Khâm Triết ngày nay) ở chùa Đắc Cách Bát Bảng đất Tây Khang giảng, người đại tu chứng của Bạch giáo thượng sư Trần Kiện Dân phiên dịch để làm ví dụ:

“Bên bất liễu nghĩa, như vẽ tranh đàn thành, cúng dường Phật Mẫu ngoài Thủ ấn (Cúng dường “Phật Mẫu” ngoài Sự nghiệp thủ ấn, Trí tuệ thủ ấn), và các loại Sự nghiệp khởi phần, tất cả những việc này đều là phương tiện nhập nội nghĩa (Nội nghĩa là chỉ Mật ý của Lạc Không song vận trong Song thân pháp). Còn bên liễu nghĩa, là Tâm yếu của khí, mạch, Minh điểm – Thức thứ tám Như Lai Tạng chân thực của Tâm tự tính quang minh, là Đại thủ ấn thù thắng bất biến (Cái diệu lạc “bất biến” Lạc Không song vận chứng được do đích thân tu hành Song thân pháp là Đại thủ ấn thù thắng)… Nội đạo Bát Nhã thừa, tức chỉ trụ một phần Không lý ở Tâm, vì Minh (Minh thể trong Lạc Không song vận) không hiển, cho nên (Minh thể Như Lai Tạng) tự trụ ở trong chỗ bí mật (mà không thể hiển thị ra ngoài). Cát tường Man kinh nói: “Cái Bạc Già Phạn Như Lai Tạng khó thông đạt như thế, mà tự trụ ở bên ngoài các Biệt dị sinh, Thanh Văn, Bích Chi Phật và người sơ học Không tính, các Bồ Tát tâm tán loạn” vân vân. Tất cả Kim Cương thân đó hiển hiện sự thuận ứng trong Như Lai Tạng (Như Lai Tạng nói ở đoạn này là chỉ Minh điểm), sắc thân tối cực thậm thâm, có đầy đủ tướng hảo và vô cấu. Tức Vô cấu thân này, vốn dĩ an trú ở trong Hữu hỷ thân, Tâm và Cấu tướng đầy đủ, trói buộc bằng cái vỏ phiền não, gọi tên là Như Lai Tạng. Trí lực nơi đó phi nơi đó, không sợ không cùng công đức chư Phật đều đầy đủ sẵn. Nội nghĩa như vậy, cho nên vô cùng ẩn mật, vì câu Kim Cương, ta vì để cho họ minh hiển hiểu biết, nguyện viết cuốn luận này, cho nên tụng đọc”. (34-332, 333)

Đó là (một phần) nội dung trong “Trát Mạc Nang Đôn – Thậm thâm nội nghĩa” do Đế sư triều Minh Nhượng Tưởng Đa Kiệt truyền dạy, Thân Tôn Nhân Ba Thiết ở chùa Đắc Cách Bát Bảng đất Tây Khang giảng, ý nói Lạc Không song vận Song thân pháp mà Mật tông lấy khí mạch, Minh điểm làm cơ sở để tu đó là Liễu nghĩa giáo, và coi những việc như vẽ đàn thành, cúng dường…là bất Liễu nghĩa giáo. Mà cái pháp Lạc Không song vận này nó vô cùng “thâm sâu”, người ngoài không thể hiểu biết, nó khác với pháp bên Hiển giáo, cho nên gọi là “Thậm thâm nội nghĩa”.

Họ cho rằng Bát Nhã mà bên Hiển tông tu chứng, chỉ là chứng giải “tất thảy pháp duyên khởi tính không”, cho nên chỉ trụ một phần Không lý ở tâm, cho nên Như Lai Tạng Minh điểm trong Không Lạc song vận không thể hiển lộ, dẫn đến khiến “Như Lai Tạng Minh điểm” ở trong chỗ bí mật, cho nên tổ sư Mật tông thương xót những người tu hành bên Hiển giáo, bèn phát khởi tâm từ bi mà nói cho đại chúng biết: Sau khi chứng được tất thảy pháp duyên khởi tính không mà bên Hiển giáo tu thì nên tu thêm Minh điểm và Song thân pháp, để khiến cho “Minh điểm Như Lai Tạng” của Lạc Không song vận được hiển lộ đầy đủ ra, sau đó có thể tức sinh tức thân thành tựu Phật đạo cứu cánh.

Thế nhưng cái mà Bát Nhã bên Hiển giáo chứng được, kỳ thực chính là Thức thứ tám Như Lai Tạng mà Mật tông không thể chứng được, chứ tuyệt đối không phải là “coi quán hành tất thảy pháp duyên khởi tính không là Bát Nhã” như các thày Mật tông ngộ nhận. Các thượng sư Mật tông xưa nay và pháp sư Ấn Thuận thày Trung Quán phái Ứng Thành đều ngộ nhận về Bát Nhã như thế. Các tổ sư Mật tông cho rằng Minh điểm tức là Như Lai Tạng, Minh điểm là thứ vốn dĩ đã tồn tại, chỉ là tàng ẩn trong thân, không thể nào nhìn thấy được. Đồng thời họ cho rằng Minh điểm là cội nguồn sinh mệnh của tất thảy chúng sinh, là gốc rễ của sinh mệnh. Thế nhưng, Minh điểm thực tế lại là ra đời sau khi quán tưởng, không phải là vốn có và ngầm ẩn trong cơ thể. Như Lai Tạng mà Hiển giáo nói, lại hiển thị rõ ràng trong mọi thời (quá khứ, hiện tại, tương lai), mọi chốn, không hề tàng ẩn. Tất cả những người chân ngộ đều có thể nhìn thấy Như Lai Tạng – A Lại Da thức – trong thân tất thảy mọi hữu tình đang không ngừng hiện hành vận tác trong mọi thời. Những người chưa ngộ vì không đủ Kiến địa, nên không thể nhìn thấy Nó, thế nhưng Thức thứ tám Như Lai Tạng của anh ta vẫn hiển hiện rõ ràng chứ không tàng ẩn, không cần phải quán tưởng thì mới nhìn thấy Nó.

Tất cả những người chân ngộ đều có thể nhìn thấy Như Lai Tạng của những người chưa ngộ đang hiện hành vận tác, không phải nhờ quán tưởng gì hết. Người chân ngộ trong lúc mới ngộ và sau khi ngộ, cũng đều có thể hiện quan nhìn thấy Như Lai Tạng trong thân thể mình và tất cả chúng sinh hữu tình đang hiện tiền phân minh, không cần sau khi quán tưởng mới bắt đầu nhìn thấy. Bất luận là đang tu hay chưa tu, đã ngộ hay chưa ngộ, Như Lai Tạng của mỗi người đều hiển lộ đầy đủ trong mọi thời, không hề có chỗ nào tàng ẩn, không cần phải sau khi quán tưởng thành công mới nhìn thấy được. Như thế mới có thể nói Như Lai Tạng “biến nhất thiết thời, biến nhất thiết xứ, biến nhất thiết giới, biến nhất thiết thức”. Tổ sư Thiền tông nói “đầu sừng trộn nê trần, biến xứ không từng ẩn, dương xanh bờ cỏ thơm, chỗ nào không xưng tôn”, chính là sự miêu tả hay nhất về Như Lai Tạng thị hiện biến khắp mọi thời, biến khắp mọi chốn.

Tổ sư Mật tông xưa nay đều nói Minh điểm là Như Lai Tạng, tức là cái chấp thụ thân căn. Lối nói này chính là hư vọng tưởng của những người chưa ngộ. Vì như thế Minh điểm không hiển hiện rõ ràng biến khắp mọi thời, phải đợi sau khi hành quán tưởng xong thì mới hiện ra, cũng có nghĩa là phải đợi sau khi Sắc thân có đầy đủ mọi bộ phận thân thể và Ý thức hiện khởi thì mới dựa vào sự quán tưởng của Ý thức xong thì mới xuất hiện ở trong thân mình. Sau khi xuất hiện, cũng không thể để người khác nhìn thấy. Điều này khác xa với việc Thức thứ tám Như Lai Tạng thị hiện biến khắp mọi thời, cũng có thể do tất cả những người đã ngộ khác quan sát thấy Như Lai Tạng của mình. Minh điểm chỉ là pháp lúc thì có mặt, lúc thì đoạn diệt biến mất, thì hiển nhiên nó không thể trì thân. Khi nó không có mặt thì chắc chắn không thể trì thân, vậy lẽ ra khi Minh điểm không hiển hiện thì tất cả mọi hữu tình đều phải chết mới đúng. Thế nhưng sự thật nhìn thấy không phải vậy, cho nên mới nói việc Mật tông coi Minh điểm là Như Lai Tạng hoàn toàn trái ngược với Phật pháp, không phù hợp với chư kinh Tam thừa, không phải là Phật pháp. Mật tông thuyết pháp như vậy, chỉ là dùng để thay thế cho pháp Như Lai Tạng thật sự, thay thế cho chính pháp Phật giáo chân chính mà thôi, thuần là vọng tưởng ngoại đạo, hoàn toàn không liên quan gì đến nội nghĩa Phật pháp chân chính.

Thượng sư Thượng sư Trần Kiện Dân của Bạch giáo phiên dịch cuốn “Trát Mạc Nang Đôn – Thậm thâm nội nghĩa” này thì lại tán đồng quan điểm thuyết pháp của Hoàng giáo, cho rằng A Lại Da được phân tách ra từ Ý thức: “Nghiệp cảm duyên khởi của Tiểu thừa có thể giải thích hiện tượng sinh diệt của vũ trụ trong Cộng nghiệp, có thể giải thích các loại vận mệnh đời người khác nhau trong Biệt nghiệp. Thế nhưng, nghiên cứu sâu hơn, sao có thể thông hiểu ba đời bằng nghiệp quả này? Hay là sinh khởi dị thục? mà chủng tàng trữ có thể phát khởi hiện hành? Nay không có ai có thể giải thích căn nguyên, vì thế pháp Đại thừa mới xây dựng lên pháp A Lại Da thức. Thực chất thì Thức này là từ Ý thức thứ sáu mà Phật nói trong Tiểu thừa mở thêm ra thứ A Lại Da thứ tám, gọi là Tạng thức, cũng gọi là Dị thục thức. Vì thế những người trước đây không giải thích được, nay có thể theo đó mà hiểu được. Nó rất thiện xảo ở phần Cộng nghiệp, nói cùng là nhân loại, cùng có cộng nghiệp trái đất. Từ ấn tượng trong não hải (bộ não) A, nhờ chất của nó mà biến hiện ở trong não hải B, cho nên đều tương đồng. Mà việc hình thành Cộng nghiệp, cũng là do tích lũy Biệt nghiệp sinh ra, cho nên xu thế phong khí của đại chúng ngày càng thấp kém, duy vật thành thời thượng (được sùng bái), trái ngược với chính lý duy tâm, chỉ theo ham muốn vật ngoại cảnh, không chịu phản tỉnh nội tâm, cho nên tất cả mọi ham muốn vật chất, đều thành công cụ sát thân vậy”. (34-24)

Thượng sư Thượng sư Trần Kiện Dân tán đồng quan điểm của Tông Khách Ba của Hoàng giáo như vậy, cho rằng Thức thứ tám Như Lai Tạng chỉ là thứ tách nhỏ từ Ý thức ra, không phải là thứ vốn dĩ đã có, cùng một giuộc với Tông Khách Ba, đều rơi vào trong tà kiến của Trung Quán phái Ứng Thành. Chỉ vì họ không thể chứng được Thức thứ tám nói trong Hiển giáo, cho nên mới cùng coi Minh điểm là Như Lai Tạng, đem Như Lai Tạng và A Lại Da thức một chia làm hai – tức coi Như Lai Tạng là Minh điểm, còn A Lại Da thức là thức tách ra từ thể tính Ý thức thứ sáu để nói, cho nên A Lại Da thức trên thực tế là không tồn tại, còn Như Lai Tạng thì là Minh điểm do quán tưởng mà thành. Sau khi xây dựng lý luận như vậy, thì việc quán tu Minh điểm của Mật tông cho đến pháp tu song thân tức thân thành Phật có thể trở thành một hệ thống tu hành được hợp lý hóa, lại có thể tránh thoát được tình thế khó khăn mâu thuẫn lý luận và thực tu do vấn đề chưa chứng ngộ được Thức thứ tám Như Lai Tạng đem lại, thì họ có thể trở thành những nhà đại tu hành, có thể quảng truyền pháp tu song thân của đạo dâm dục.

Thế nhưng, trong các kinh Tứ A Hàm của Phật pháp nguyên thủy, Phật đã sớm nói rõ Ý thức là do Thức thứ tám sinh ra, phải lấy Thức thứ tám làm “Nhân”, là, “Gốc” thì mới có thể sinh ra Tâm ý thức. Nay Thượng sư Trần Kiện Dân, Tông Khách Ba, pháp sư Ấn Thuận (chi tiết xem các chứng cứ ví dụ trong các cuốn sách của tôi) lại phản lời Phật, nói ngược rằng Thức thứ tám từ Ý thức thứ sáu chia nhỏ mà ra, qua đó để phủ định Thức thứ tám A Lại Da, nhằm tránh được khốn cảnh không chứng được Thức thứ tám Như Lai Tạng của mình. Mật tông dựa vào lý luận này để chia tách mối quan hệ giữa Thức thứ tám A Lại Da và Như Lai Tạng, khiến A Lại Da thức và Như Lai Tạng trở thành hai pháp khác nhau, sau đó lập riêng lý luận lấy Minh điểm làm Như Lai Tạng, đem pháp môn quán tu Minh điểm của ngoại đạo gắn vào trong Phật môn, thay đổi nội hàm pháp nghĩa của Phật giáo từ gốc rễ, thật đúng là những người giỏi nghề thiết kế và chuyển dịch, nhưng thực chất là những kẻ có ác tâm hiểm độc, phá hoại Phật giáo.

Lại nữa, từ câu nói “Từ ấn tượng trong não hải A, nhờ chất của nó mà biến hiện ở trong não hải B, cho nên đều tương đồng” của Thượng sư Trần Kiện Dân, chứng minh rằng Thượng sư Trần Kiện Dân chưa hề chứng biết được cái đạo lý Nội tướng phần, cho nên mới sinh ra tà giải về cái lý “cái sở kiến chỉ là Tâm” mà Phật nói về Nhất thiết chủng trí trong kinh điển Duy Thức, cho rằng “Từ ấn tượng trong não hải A, nhờ chất của nó mà biến hiện ở trong não hải B, cho nên đều tương đồng”. Như thế là lầm to về lý Chủng trí Duy Thức. Có điều, vấn đề này thuộc về Đạo chủng trí, không thuộc phạm trù mà cuốn sách này muốn biện chứng cho nên tạm gác không luận.

Thượng sư Trần Kiện Dân sau khi tán đồng với quan điểm “Thức thứ tám tách nhỏ ra từ Ý thức thứ sáu” của Tông Khách Ba, lại dựng lên Thức thứ chín, nói rằng Thức thứ chín cùng tồn tại với tám thức trước, hoàn toàn hiểu sai về chính nghĩa Chủng trí: “…và khai mở các loại mạch trí tuệ, mà thăng hoa Minh điểm hồng bạch. Minh điểm là trí tuệ. Điểm tức là tinh hoa của nó. Sau đó, lại ở trên phiền não tham thô nặng, lấy trí thẩm thấu, thẳng đến thức thứ chín chuyển thành Ngũ trí: Năm thức đầu chuyển thành Thành sở tác trí, thức thứ sáu chuyển thành Diệu quan sát trí, thức thứ bảy là Bình đẳng tính trí, thức thứ tám là Đại viên kính trí, thức thứ chín chuyển thành Pháp giới thể tính trí”. (34-76)

Đó là kết quả của việc không hiểu gì về Duy Thức chuyển thức thành trí của Phật pháp. Tức là các thày Mật tông từ cổ chí kim đó – đặc biệt là thày trò Hoàng giáo – phủ nhận Thức thứ tám, không chứng được Thức thứ tám, mà lại rêu rao có thể chuyển thức thành trí, quả thật là những kẻ xảo ngôn thiện biện. Thức thứ bảy, tám, chín đã tách nhỏ ra từ Ý thức, thì thức thứ bảy, tám, chín này không có thật, nên chuyển thức thành trí chỉ chuyển được đến Diệu quan sát trí của thức thứ sáu là dừng, không thể có được ba trí Bình đẳng tính trí, Đại viên kính trí và Pháp giới thể tính trí đằng sau nữa. Thày Trung Quán phái Ứng Thành của Hoàng giáo Mật tông (ví dụ như Tông Khách Ba thời xưa và pháp sư Ấn Thuận ngày nay) đã nhận định thức thứ bảy, tám, chín là danh tướng giả lập, chứ không có pháp thật. Một khi thức thứ bảy, tám, chín chỉ là danh tướng (danh từ), không phải là pháp thực thì sao lại có thực tính? Sao lại có thể sinh ra ba trí như Bình đẳng tính trí…? Nếu nói Ý thức chia nhỏ ra thành ba thức bảy, tám, chín cho nên mới có ba trí đó, thì cũng phải nói rằng ba trí này đều từ Ý thức mà ra, nên nói rằng “Ý thức chuyển sinh thành Diệu quan sát trí, Bình đẳng tính trí, Đại viên kính trí, Pháp giới thể tính trí”, như thế mới là “nói đúng”, vì thức thứ bảy, tám, chín đều là (thuộc) tính của Ý thức mà giả lập tên gọi, không có pháp thực thể, cho nên bốn trí này lẽ ra đều do Ý thức sinh ra mới phải.

Các thày Mật tông đều cho rằng Minh điểm là Như Lai Tạng: “Hàm Tàng thức – Chân Như”: “Hành tĩnh lự chín chi, quán Tâm như trứng rỗng, bên trong nó: dưới là nguyệt luân, trên là nhật luân; to nhỏ như hạt đậu bổ ra, trong có Minh điểm, to cỡ hạt cải trắng. Màu hồng trắng, tướng nó quang minh, thể tính Không Lạc, có đủ ba pháp này. Lại nữa, ý hơi chuyên chú trên nó, chỗ Minh điểm dựa vào âm “Hưng”, đục mở một lỗ ở nhật luân phía trên, to cỡ một cái lông đuôi ngựa. Nguyệt luân ở dưới quan sát bằng ý, lại hòa hợp bằng khí, vô thanh dẫn đầy (hít đầy khí không tạo âm thanh), Minh điểm ngầm hòa nhập vào trong lỗ đó. Từ Minh điểm trong nhật nguyệt, sinh ra một tia sáng trắng, dùng hình chữ thập giao thắt sáu nút rưỡi, rồi nén khí vừa phải, cho đến khi không còn chịu được nữa, thì chầm chậm thở ra không tạo âm thanh, Ý thức thu gom hướng vào trong ở chỗ dây buộc thắt phần trước, tan nhập vào Minh điểm. Lại nữa, hai luân nhật nguyệt tức biểu thị ‘phương tiện và trí tuệ’, Minh điểm trong đó tức là A Lại Da thức, sáu nút thắt buộc tức là Lục thức, nút thắt một nửa tức là Mạt Na thức. Cái cực tế rõ ràng duyên bám bằng tu lực thiền định như thế, có thể nhanh chóng sinh hiện thần thông”. (61-250, 251)

Đó là đoạn văn trích trong “Đạo quả - Kim Cương cú kệ chú” của phái Tát Già. Theo như lời họ nói thì Minh điểm tức là A Lại Da thức, sáu nút thắt là Lục thức, nút thắt nửa là Mạt Na thức, hoàn toàn khác với lời khai thị của Phật trong chư kinh Tam thừa. Mật tông nói Minh điểm là A Lại Da thức, mà Minh điểm lại là nền tảng bắt buộc phải tu nhập môn trong Mật tông. Bởi vậy, hành giả Mật tông khi nghe nói Thực Tướng Tâm mà Hội Đồng tu Chính Giác chúng tôi ngộ được chính là A Lại Da thức, bèn cười giễu các bạn đồng tu chúng tôi tu chứng Bát Nhã quá thô thiển, tự xưng rằng “A Lại Da thức là pháp mà những người mới nhập môn ở Mật tông phải tu chứng”, còn họ thì đã chứng được “Chân Như Phật địa” từ lâu rồi. Thế nhưng họ không biết Minh điểm căn bản không phải là A Lại Da thức mà Phật giảng, lại còn đem tà kiến phàm phu chưa chứng được A Lại Da thức ra để mà cười giễu những người chứng ngộ đã chứng được Căn bản Tâm A Lại Da thức là tu chứng thô thiển. Phản quan Chân Như Phật địa mà họ chứng được, thì chẳng qua là Tâm giác tri nhất niệm bất sinh trong cảnh giới quán tưởng, vẫn chỉ là Ý thức, vẫn rơi vào trong thường kiến của ngoại đạo phàm phu. Tu chứng “Phật pháp” của Mật tông vẫn thường hay đem danh tướng của cảnh giới tu chứng Phật pháp loạn lồng ghép, cơ bản là không hiểu gì về chính nghĩa Phật pháp, khiến cho những người thân chính Bát Nhã chính pháp dở khóc dở cười. Nếu muốn biện chính (chỉ ra cái đúng) cho họ, thì phải mất vô vàn lời mới có thể giải thích rõ được.

Lại nữa, Tâm ý thức tuyệt đối không thể nào hòa tan và nhập vào trong Minh điểm được. Minh điểm là pháp do Tâm ý thức sinh ra, không thể nào đổi chỗ chủ khách được. Nếu nói Minh điểm đã sinh ra rồi, sau đó hòa tan và nhập vào trong Tâm ý thức thì nghe còn thông được, vì chủ tòng (cái chính và cái đi theo) không rối loạn. Qua đó có thể thấy “Kiến, Tu, Hành, Quả” của Mật tông chỗ nào cũng có tà kiến sai lầm, chẳng có lấy một cái chính xác. Thế nhưng các tổ sư Mật tông từ xưa đến nay lại chẳng có ai có đủ chính tri, chính kiến để đứng ra mà tu chứng, quả thật là một chuyện đại kỳ quái trong thiên hạ.

“Đạo quả - Kim Cương cú kệ chú” của phái Tát Già còn nói thế này: “Trong bản tụng có nói: ‘Đại Bồ Đề thanh tịnh hàm tàng thức’. Trong bản tụng nói cái “hàm tàng” là cái gốc của hai việc Luân Niết đã thuật ở trước. Trong bản tụng nói cái “thức” tức là một phần của Minh thức trong bản thân anh ta. Do bản tịnh của nó nên nói rằng: ‘Đại Bồ Đề thanh tịnh’. ‘Do bản tịnh của nó như thế, nên không tạo gốc của luân hồi, cũng không buộc phải ân cần cầu giải thoát’! Nếu như có suy nghĩ như vậy, tức là sai lệch đó. Vì nó bỗng chịu nhiễm bẩn, sau đó là (thành) chúng sinh hữu tình. Cho nên lý này không sai trái, và càng phải cần ra sức cầu giải thoát. Tự tính của nó nếu tịnh, thì tịnh trị như lý, hốt nhiên nhiễm bẩn, thì càng phải tịnh trị, thì mới đúng lý”. (61-386, 486)

Quan niệm đó của Mật tông là hiểu sai về lời Phật “Như Lai Tạng tính nó vốn tịnh”, nên mới nói vậy. Một là Minh điểm không phải là Như Lai Tạng. Minh điểm cố nhiên không sinh chấp ở Lục trần mà khởi sinh dục tham, “tính nó vốn tịnh (Lời này là phương tiện thuyết để nhằm biện chính pháp nghĩa, chứ câu đó cũng có sai lầm về cách dùng từ)”. Thế nhưng, Minh điểm là pháp hư vọng, do quán tưởng bằng Ý thức mà thành, giống như Tướng phần trong mộng (giấc mơ), chỉ là Nội tướng phần do A Lại Da thức sinh ra, thuộc về Sắc trần của Lục trần, chứ không phải là Tâm, nên không thể nói Minh điểm là Thực Tướng Tâm của chúng sinh được. Đã không phải là Thực Tướng Tâm, cũng không phải là vọng tâm của pháp duyên khởi, mà nói kỳ tính bản tịnh (tính nó vốn tịnh), là có sai lầm lớn.

Phật nói chúng sinh đều có Thức thứ tám vốn dĩ thanh tịnh, trong khi mà Ý thức và Mạt Na thức thực hiện các loại phân biệt và biến kế chấp vạn pháp, NÓ vẫn tiếp tục trụ trong bản tính thanh tịnh, không khởi tham nhiễm, mà có công năng đức dụng của NÓ, là cái mà tất cả chúng sinh hữu tình đều không thể không có trong giây lát. Thể tính như vậy từ vô thủy đến nay, vẫn luôn bất biến như thế, cho nên mới gọi là Bản tính thanh tịnh, chứ không như những người Mật tông hiểu sai, nói rằng “Minh điểm bản tính thanh tịnh”. Vì thế, cái “Kiến địa” của Mật tông đã sai ngay từ đầu, thì kết quả tiến tu về sau này càng ngày càng xa Phật đạo, hoàn toàn trái ngược với chính đạo của Phật pháp. Cho nên tôi thường nói: Hành giả Mật tông vô cùng đáng thương, tiêu tốn biết bao nhiêu tiền tài và tinh thần để cúng dường cho thượng sư, thêm vào đó sau khi tinh tấn tu hành, cuối cùng lại rơi vào tà pháp của ngoại đạo, hoàn toàn không liên quan gì đến Phật pháp. Thật khiến cho người ta ngậm ngùi khôn nguôi!

Trong pháp Mật tông đều nói Bồ Đề tâm có thể tan chảy (dung hóa) để dẫn sinh lạc xúc: “Như Đan Điền hỏa quá thịnh, cùng nhau mà đến thì tinh có thể hóa. Tức về mặt thuật ngữ là nói Bồ Đề tâm tan chảy. Tinh hóa thì các tính địa thủy hỏa phong không còn quân bình (cân bằng), vì không quân bình nên mới có đạo lý trên dưới, trong ngoài. Nếu như các đặc tính địa thủy hỏa phong không mất đi quân bình, mà chỉ là khí thượng thăng, thì thân thể tuy cũng sinh ấm, nhưng tinh chưa chắc có thể hóa… Đan Điền hỏa cháy mạnh thì sau đó Bồ Đề tâm hóa (Chú thích gốc: Bồ Đề tâm tức là Tinh điểm trên luân). Bạch Bồ Đề tâm hóa thì bệnh xương tiêu trừ. Các Bồ Đề tâm trắng, đỏ, vàng đều hóa thì tất cả mọi bệnh tật đều được trừ, cơ thể khỏe mạnh, màu da sáng bóng, sức mạnh vô cùng, vào nước không lạnh, đó đều là nhờ công của Đan Điền hỏa. Xưa Thích Ca Mâu Ni Phật (Trong Mật kinh do các thượng sư thời xưa của Mật tông sáng tác trong một thời gian dài đều vọng thuyết (nói láo) rằng Thích Ca Mâu Ni Phật của Hiển giáo từng nói thế này) nói rằng: ‘Bạch Bồ Đề tâm trên đỉnh sau khi hóa, chảy đến chỗ nào thì chỗ đó sinh tâm hoan hỉ’. Khi bạch Bồ Đề tâm ở Đại an lạc luân trên đỉnh đầu hóa, thì sinh tâm hoan hỉ; Sau khi hóa tan thì chảy xuống giữa hầu, thế là bạch Bồ Đề tâm ở Thọ dụng luân hóa, khi hóa thì sinh tâm diệu hoan hỉ; Sau khi hóa lại chảy xuống giữa tâm, thế là Bồ Đề tâm ở Pháp luân hóa, lúc hóa thì sinh tâm ly khổ hoan hỉ. Sau khi hóa lại chảy xuống giữa rốn, thế là Bồ Đề tâm ở Tề hóa luân tan chảy, lúc hóa sinh tâm hòa hợp hoan hỉ; Bạch Bồ Đề tâm hình thành từ Phụ tinh (tinh cha) trên đỉnh chảy xuống từng cấp như thế, cho đến khi dung hòa với hồng Đan Điền hỏa do Mẫu huyết (huyết mẹ) hình thành ở dưới đáy, sẽ tạo ra hoan hỉ cực đại”. (62-183, 184, 185. Các phần khác xem ví dụ nêu trong Chương 2 và Chương 3)

Cái mà gọi là “Bồ Đề tâm” của Mật tông, kỳ thực không phải là Bồ Đề tâm nói trong Phật pháp. Mật tông thường loạn dùng, loạn phối hợp các danh tướng (danh từ) của Phật pháp chính tông, từ “Bồ Đề tâm” cũng được dùng loạn như vậy. Có lúc thì nói tinh dịch của người nam là Bồ Đề tâm, có lúc nói Minh điểm do quán tưởng mà thành là Bồ Đề tâm, có lúc nói trong cơ thể ai cũng có Bồ Đề tâm trên trắng dưới đỏ, có lúc lại nói hồng Minh điểm của người nữa là Bồ Đề tâm, có lúc nói Tâm giác tri (ở trạng thái) nhất niệm bất sinh là Bồ Đề tâm, có lúc nói Tâm giác tri “Minh Không song vận” là Bồ Đề tâm, có lúc lại nói Tâm giác tri lúc Lạc Không song vận là Bồ Đề tâm, các thể loại nói đều khác nhau. Bồ Đề tâm nói trong đoạn văn trên thì coi Minh điểm do quán tưởng thành là Bồ Đề tâm.

Mật tông nói Minh điểm quán tưởng tức là Bồ Đề tâm, có thể tan chảy (hóa lỏng), thế nhưng Bồ Đề tâm thật sự thì mãi mãi không bao giờ có thể tan chảy được, vì nó vô hình vô sắc, tính như Kim Cương. Có lúc nói trong cơ thể mỗi người đều có hai Bồ Đề tâm trên trắng dưới đỏ, thì tức là Bồ Đề tâm thắng nghĩa có hai loại, trở thành lý luận tự sáng tác rồi, không phải là Phật pháp nữa. Mật tông loạn dùng từ “Bồ Đề tâm” như thế, dễ sinh ra tai hại vô cùng, khiến cho người ta hiểu sai về tu chứng trong Phật pháp mà gây ra đại vọng ngữ và di chứng dẫn dắt sai lầm chúng sinh cùng đọa vào nghiệp đại vọng ngữ, thật không nên chút nào. Lại nữa, quán tưởng theo pháp của Mật tông, để thăng giáng Minh điểm (Bồ Đề tâm) đến các Luân, sau khi sinh khởi ra các loại tâm hoan hỉ (cảm nhận lạc qua tiếp xúc cơ thể), thì họ gọi đó là chứng lượng trong Phật pháp, đem phối với các quả vị chứng lượng ở chư Địa (Chi tiết xem nội dung của “Đạo quả - Kim Cương cú kệ chú” và thuyết pháp của các thày Mật tục), cho đến phối cả với quả vị chứng lượng ở Phật địa. Kỳ thực, những chứng lượng đó hoàn toàn chẳng liên quan gì đến Phật Bồ Đề. Thế nhưng, Mật tông lại coi đó là pháp môn tu hành cực kỳ quan trọng – là đạo tức sinh thành Phật. Quả thực đó là những chuyện vô cùng hoang đường, phàm những người học Phật chúng ta đều nên biết rõ sự hư vọng của họ.

 

 


Bài trước

Bài sau

Trang chủ

Lượt xem trang: 0