Phật giáo Tạng truyền thật sự là Giác Nãng Ba, hoằng dương diệu pháp Như Lai Tạng Tha Không Kiến, hoàn toàn phù hợp với giáo nghĩa Phật giáo. Tứ đại giáo phái Hồng, Hoàng, Hoa, Bạch là Phật giáo Tạng truyền giả, tất cả các pháp nghĩa của họ đều không phù hợp với giáo nghĩa Phật giáo, cho nên là tà giáo, tà pháp.
Tiết 5: Tinh dịch cũng có thể làm cam lộ để cúng dường chính mình
Những người tu luyện chuyết hỏa và khí công trong Mật tông, có lúc còn lấy tinh dịch làm cam lộ để cúng dường chính mình: “Như khi Minh điểm tăng thịnh (nếu như tịnh dịch trong cơ thể quá nhiều mà chưa được phóng xuất tiết ra), chày không gục (dẫn đến sau khi hành dâm thì dương vật không thể mềm xuống), (thì nên) chơi nhiều quyền pháp. Nếu không trừ (nếu vẫn không thể xử lý được tình tình cương cứng mãi) thì phải dựa nhiều vào Nghiệp ấn (thì phần lớn phải dựa vào Minh Phi thực thể) để hành quyền pháp đề tán. (Nếu) vẫn không giải quyết được, lúc Nghiệp ấn (khi Minh Phi nhận được lạc xúc của mình mà xuất tinh) không dẫn đến sinh con (mang thai), (thì) quán sát Tịch Tĩnh Phẫn Nộ Bản Tôn trong liên cung (âm hộ) để phóng điểm (xuất tinh) cúng dường (Bản tôn “Phật Phụ Mẫu” dâm hành trong tử cung). Sau đó, tại Nghiệp ấn liên (trên âm hộ đã bị xuất tinh), thượng phẩm thì dùng lưỡi (trực tiếp mút) liếm nuốt, hạ phẩm thì dùng thìa múc uống, niệm chú A Mễ Đả (tức chú Cam lộ) tự cúng mình. Làm xong, tội sẽ không sinh, cũng không dẫn đến suy yếu, có thể viên mãn tư lương” (34-558, 559).
Như vậy, nam hành giả Mật tông dùng tinh dịch để tự cúng dường, gọi tinh dịch khi đó đã trộn với Minh điểm (dâm dịch) của Minh Phi là chất đại bổ, có thể bổ dưỡng tăng ích cho sự tu chứng trên “Phật pháp”, cho nên gọi là “tự cúng dường”. Không chỉ Hồng, Bạch, Hoa giáo nói như thế, mà Tông Khách Ba của Hoàng giáo cũng nói như vậy. Muốn biết thêm chi tiết, xin tự tìm đọc cuốn “Mật tông đạo thứ đệ quảng luận” của Tông Khách Ba sẽ rõ.
Khi song thân hợp tu, người nam để tăng ích cho chứng lượng trên “Phật pháp” sẽ chiết lấy dâm dịch Minh Phi trên thân người nữ, gọi là trọc phần hoặc tịnh phần của hồng Minh điểm:
“Cách chiết có ba phương pháp: Cách thượng chiết là… Cách trung chiết là (quán tưởng) Bản tôn tự sinh lĩnh nạp vật Tam muội da: Khi Mẫu giáng tịnh phần (dâm dịch tiết ra nhiều), trong miệng ngậm cam lộ A Mễ Đả (rượu), dùng ống trúc hút lấy (hút dâm dịch người nữ vào trong mồm bằng ống trúc), cho tương hợp với cam lộ (rượu), lấy lưỡi tự trộn đều, (quán tưởng) cúng dường tự giới Bản tôn (rồi nuốt xuống). Nhờ đó mà viên mãn tư lương, vật Tam muội da bí mật (lĩnh nạp chất hỗn hợp giữa rượu và dâm dịch), thù thắng du hí (trò chơi Kim Cương pháp tu song thân thù thắng) này có thể khiến cho người được trường thọ. Sau đó lắc thân (rùng mình lắc thân để tịnh phần dâm dịch đã chiết xuất đó được phân tán lan khắp toàn thân)” (34-566).
Còn về pháp chiết Minh điểm hạ phẩm thì như sau: “Cách chiết hạ phẩm, khi thân giới tăng quảng (chỉ người nữ đạt đến cực khoái tình dục), Mẫu (người nữ) giáng điểm (khi lượng dâm dịch tiết ra nhiều), (dưới) eo lưng người ấy đặt cái gối đệm, dưới liên hoa (âm hộ) đặt cái khay để hứng, không được phép để ánh sáng mặt trời chiếu vào, dùng lỗ mũi phải nối ống trúc để hút vào (hít lấy cái khí vị của nó), dung hai tay ép hai lỗ mũi, khiến cho khí (khí vị) dịch chuyển qua ống (trúc) vào lỗ mũi phải, chắc chắn có thể chiết được tịnh phần của người nữ. Xong việc thì lắc thân rùng mình”. (34-566~567)
Cách chiết lấy Minh điểm như trên đều là mong muốn qua đó có thể nhanh chóng thành tựu “Cứu cánh Phật quả vô thượng yoga”. Cho nên, cách quán tưởng và thực hiện như thế, đối với Mật tông mà nói, đó là việc vô cùng thiêng liêng. Dâm dịch lúc đó mà thứ cam lộ vô cùng thần thánh – trên “Phật pháp” có thể sinh ra lợi ích vô cùng to lớn, cho nên người Mật tông tuyệt đối không bao giờ chấp nhận trước những bình phẩm của Hiển tông về ngũ cam lộ của họ.
Họ coi loại “cam lộ” này là thứ vật chất vô cùng thiêng liêng, vì thế bám vào ngũ cam lộ để đặt ra lời thề, bắt buộc phải thề chết để bảo vệ: “Lời thề thù thắng về đại nhục (đại nhục là chỉ thịt người tươi mới), ba Kim Cương nên tu; lời thề thù thắng về phân tiểu, là cốt yếu để trì Minh; thịt voi Tam muội da, có thể đắc ngũ thần thông; lời thề thịt ngựa, trở thành chúa tể ẩn thân; các lời thề thịt chó, thành nhất thiết Tất địa; thịt bò Tam muội da, chiêu mời Kim Cương thù thắng. Nếu không có loại thịt nào, cần suy nghĩ tất cả các thiện quán, hành Kim Cương du già, tất thảy Phật sẽ gia trì. Có đầy đủ các thắng tướng, thân ngữ ý Kim Cương. Lời thề tâm gian trí, Đỉnh nghiêm trì Kim Cương, tất thảy Phật hoan hỉ. Phát lời thề thù thắng, thành nhất thiết Tất địa, lời thề thù thắng là thiện hành”. (65-58)
Lại có pháp quán tưởng chiết tịnh phần (dâm dịch) cam lộ người nữ như sau: “Nói về quán tưởng chiết tịnh, trên liên nhật nguyệt hư không trước mặt (do quán tưởng mà thành), thượng sư Vô lượng thọ Phật Phụ mẫu (giao hợp Lạc Không) trong lúc song vận, giáng chảy xuống hồng bạch Bồ Đề (dâm dịch do “Vô lượng thọ Phật” và Minh Phi tiết ra chảy xuống), sung mãn đỉnh (đầu) và lỗ mũi của mình, tiến đến nhập vào tất cả thân mạch giới. Minh điểm của Mẫu có thể chiết được rồi, tướng nó (cách thức) xem chi tiết phần trước. Tam muội da trong này có thể lìa Năng Sở thủ chấp trước”. (34-567)
Về pháp hạ chiết cam lộ thuật ở trên, thượng sư Trần Kiện Dân có dạy khẩu quyết thế này: “Khẩu quyết hạ chiết: Dùng các loại phương tiện để sinh Đại Lạc: cua, sâu đen, mào gà phần dưới để (người nữ) ăn, có thể khai mạch khẩu (có thể mở cổ tử cung). Phần dưới eo thì dùng dầu bôi lên. Quán tưởng khởi phần: Đại chùy nhập liên, thâm nhập vào trong, cần tự lượng lấy mức độ lạc khoái của mình (phải tự biết mức độ chịu đựng dâm lạc để phòng xuất tinh). Cũng cần phải nắm bắt lấy tướng sinh khởi lạc của Mẫu (Minh Phi), tức dùng tay ôm chặt eo người nữ, thân mình đoan chính; tả mạch người nữ mở, giáng hạ hồng Bồ Đề (dâm dịch tiết ra ồ ạt). Chùy của mình như cái ống, chiết lấy tịnh phần từ đây, còn trọc phần để lại (chỉ chiết phần khí của dâm dịch, không chiết lấy dâm thủy). Tịnh phần (được hấp chiết) từ Trung mạch nhập vào (chữ) Hàng, giữa 16 Minh điểm, yên lặng mà chiết nâng. Ngón chân cái hai bên móc vào trong, ngón tay trỏ và giữa của hai bàn tay đan vào nhau trái phải sau lưng. Ngoại trừ ngón chân cái, các phần khác của cơ thể không được chạm đất. Trong khi chiết hạ khí lục gia hành, duy chỉ có Tứ châu là không co lại (tức là không co rụt chân tay về), còn lại thì đều giống nhau. Nữ mà bị vô niệm hôn mê (mất ý thức), co rút lại như quả cầu nhung, không nhịn nổi, bật ra ác thanh, đó gọi là tướng bị chiết. Sau đó phân ly (từ giai đoạn này về sau thì rời khỏi thân người nữ), an trú Bản tịnh, lắc thân hành pháp Sư tử hí cầu, ngũ luân… Nữ biểu hiện ra tướng suy yếu, mệt mỏi, nên dùng thực phẩm để bồi dưỡng, nếu không sẽ dễ suy lão”. (34-567)
Đó là nâng chiết “cam lộ” từ thân người nữ, mong muốn nhờ đó để tăng trưởng chứng lượng của mình trên pháp Vô thượng yoga, để có thể nhanh chóng “thành Phật”. Đây là một thứ tà kiến vọng tưởng, cho dù có tinh tấn tu trì pháp này vô lượng vô số ức a tăng kỳ kiếp thì vẫn không thể nào tu thành Phật được, vì mãi mãi không thể nào chứng ngộ được Thức thứ tám, hoàn toàn tuyệt duyên với Chủng trí, bởi những gì họ tu chẳng liên quan gì đến Phật pháp, lại còn phạm tội địa ngục phá giới.
Cái việc lấy “cam lộ” để tự cúng, mong cầu thành Phật như thế gọi là vọng tưởng, vì đó không phải là Cam lộ thật. Cho dù đó có là Cam lộ thật của thiên giới đi nữa thì cũng vẫn hoàn toàn không liên quan gì đến đạo thành Phật. Vì Cam lộ chỉ là pháp ẩm thực của Dục giới thiên, hoàn toàn chẳng liên quan gì đến việc tu chứng trong Phật pháp cả.
“Kinh Lăng Nghiêm” nói rằng: “Ở trong Minh ngộ đắc hư minh tính, trong đó bỗng nhiên quay về hướng vĩnh diệt, đoạn hết nhân quả, một hướng nhập Không. Không tâm hiện tiền, cho đến tâm sinh ra hiểu biết về trường, đoạn, diệt. Ngộ rồi thì không có sai lầm, đó không phải là thánh chứng. Nếu hành thánh giải, thì có không ma nhập vào tâm phủ tạng, bèn phỉ báng rằng: ‘trì giới gọi là Tiểu thừa, Bồ Tát ngộ cái Không, có trì phạm gì chứ?’ Người đó thường ở chỗ thí chủ đàn việt có lòng tin uống rượu ăn thịt, quảng hành dâm uế (quảng tu Song thân pháp cùng với các nữ nhân). Bởi vì ma lực, nhiếp thụ người đến (nhiếp thụ những người nữ hợp tu Song thân pháp và các đệ tử của họ) không sinh nghi phỉ báng, quỷ tâm đã nhập lâu rồi. Hoặc ăn phân tiểu (chi tiết xem phần thuật về Ngũ cam lộ và tiết 5, 6 của Chương 9) và rượu thịt… Một loại đều không, phá Phật giới nghi, nhập nhầm vào tội lỗi của người, mất hết chính thụ, đáng bị trầm luân đày đọa” (Quyển 9).
Những lời nói đó trong “Kinh Lăng Nghiêm” chính là viết cụ thể về thượng sư Mật tông và các học trò tu Mật pháp lâu ngày. Những hành giả Mật tông có trí tuệ mà đọc được lời kinh này, thì nên từ bỏ ngay việc tu hành ngũ cam lộ và Song thân pháp để tránh phải chịu đại họa thuần khổ cực nặng trường kiếp trong tương lai.
Lượt xem trang: 0