Phật giáo Tạng truyền thật sự là Giác Nãng Ba, hoằng dương diệu pháp Như Lai Tạng Tha Không Kiến, hoàn toàn phù hợp với giáo nghĩa Phật giáo. Tứ đại giáo phái Hồng, Hoàng, Hoa, Bạch là Phật giáo Tạng truyền giả, tất cả các pháp nghĩa của họ đều không phù hợp với giáo nghĩa Phật giáo, cho nên là tà giáo, tà pháp.
1. Không hiểu rõ pháp Thập bát giới của Phật pháp cơ bản.
Thập bát giới là gồm Lục căn, Lục trần, Lục thức, điều này mọi người đều biết rõ. Tuy nhiên, các bậc đại sư không hiểu rõ về Ý căn, đa phần đều cho rằng đại não chính là Ý căn, từ đó mà sinh ra các loại tà kiến. Tại sao lại nói rằng đại não không phải là Ý căn? Là vì Phật đã từng khai thị rằng Ý căn có thể đi đến kiếp sau, cho nên đại não đương nhiên không thể nào là Ý căn. Nay lấy kinh Phật ra để làm bằng chứng như sau: Kinh “Tạp A Hàm” quyển thứ 14 (“Đại Chính Tạng” kinh số360) viết: “…Khi ấy, Thế Tôn mới nói cho các vị tỳ kheo biết: ‘nếu tư lượng, nếu vọng tưởng, thì có Thức sử phan duyên trú. Vì có Thức phan duyên trú, nhập vào danh sắc. Vì nhập danh sắc, nên có sinh lão bệnh tử ưu bi não khổ đời vị lai, như thế thuần đại khổ tụ tập…’.” Phiên dịch diễn nôm như sau: “Nếu như có tính tư lượng (tức là tính làm chủ thẩm đoán) bất diệt, nếu như có hư vọng tưởng bất diệt, thì sẽ có thức thứ tám kiết sử phan duyên tồn tại. Bởi vì lý do có sự tồn tại của thức thứ tám có kiết sử phan duyên này, cho nên nó mới đi vào trong Danh Sắc trong thai mẹ. Vì vào trong Danh Sắc trong thai mẹ, nên mới có sinh lão bệnh tử ưu bi não khổ…ở đời sau”.
Vì sao tôi nói cái Thức trong “có Thức phan duyên trú” nó là thức thứ 8? Đó là vì Phật nói rằng Thức này nhập vào thai mẹ, tồn tại (thường trú) ở trong Danh Sắc, vì trứng thụ tinh và Ý căn lúc nhập vào thai mẹ gọi là Danh Sắc. Khi nhập vào thai mẹ, tức là có Thức này nhập vào trong Danh Sắc, mà trong “Danh” lúc này còn chưa có 6 thức đầu tiên[1], cho nên “Danh” lúc này duy chỉ là Ý căn. Còn “Sắc” lúc này chỉ là trứng thụ tinh, chỉ là tế bào đơn chưa phân chia. “Danh” nhiếp tại tâm, không phải là Hữu sắc căn, cho nên Ý căn ở đây là Tâm. Lục thức lúc chết ở đời trước đã bị hủy diệt hoàn toàn, không thể di chuyển đến đời sau được, cho nên chúng ta nên hiểu rằng cái “Danh trong Danh Sắc” mà “Thức” nhập trú vào duy chỉ là Ý căn mà thôi. Ý căn là Tâm, không phải là Hữu sắc căn. “Danh” đã là Ý căn thức thứ 7 rồi, thì cái có thể trì giữ “Danh” chắc chắn phải là thức thứ 8, vì lúc này 6 thức đầu vẫn chưa được sinh ra. Nếu như cho rằng cái “Danh” của Ý căn tại thời khắc này mà là đại não thì tức là trái với sự thực. Nếu nói rằng khi chúng ta nhập thai mẹ chỉ có Sắc mà không có Danh thì trái ngược với những gì mà Phật nói trong kinh Tứ A Hàm, vì Phật đã khai thị rằng tại thời điểm đó Danh và Sắc đều đã có đầy đủ cả. Cho nên mới nói Ý căn là Tâm, không phải là đại não, bởi đại não không thể tồn tại mà truyền đến đời sau được.
Vì thế, trong kinh A Hàm, Phật nói rất chính xác, đã chứng thực có thức thứ 7 Ý căn và thức thứ 8 là cái Thức mà trì giữ Danh Sắc, tức là đã có đầy đủ 8 thức, không phải như các vị đại sư xây dựng thêm (tự nhào nặn, bày đặt) nên “Ý thức tế tâm” ngoài Thập bát giới, lấy đó làm cái sợi dây liên kết sinh tử luân hồi nhân quả giữa đời trước với đời sau. Cũng không cần bọn họ nói những điều ngoài lời Phật nói, lập riêng cái gọi là Ý thức tế tâm làm Bản Tế của Niết Bàn, vì Phật đã nói rằng “Ý thức dựa vào Ý căn mà có (sinh ra), không phải là cái Tâm vốn dĩ đã tự có”. Phật còn khai thị rằng “Ý thức nếu còn đang tồn tại, thì (hành giả) không thể nhập vào Vô dư Niết Bàn được”. Phật cũng nói rằng “Cái mức độ nhỏ nhất của Ý thức không gì vượt qua nổi cái Ý thức trong Phi tưởng Phi phi tưởng định, nếu như cái Tâm này không vĩnh viễn mất đi thì không thể khiến cho Ý căn và Thức thứ 8 xả thọ để nhập thai”. Cho nên, các vị đại sư lập riêng ra cái Ý thức tế tâm, coi đó là Niết Bàn Thực Tế, là sợi dây kết nối sinh tử giữa kiếp trước và kiếp sau, đó đều là vọng thuyết (nói bừa) cả. Cái nguyên nhân tạo ra vọng thuyết như vậy, khởi nguồn chính là do những người như Nguyệt Xứng, Tịch Thiên ở Thiên Trúc[2] (Ấn Độ) xưa không hiểu rõ về nội dung của pháp Thập bát giới trong kinh A Hàm, nên mới sáng lập ra tà kiến Trung quán phái Ứng Thành. Những người đời sau bị học thuyết tà kiến của họ mê hoặc, cho nên đã cực lực phủ định hai thức thứ 7 và thức thứ 8, lại tiếp tục lập riêng cái gọi là tế tâm Ý thức để tuyên truyền rộng rãi, điều này không chỉ trái giáo mà còn bội lý[3], không có điểm nào đáng chấp nhận. (trích từ “Tông thông và Thuyết thông” của Đạo sư Bình Thực, trang 228-230, NXB Chính Trí ấn hành).
[1] Chú thích của dịch giả: Sáu thức đầu là nhãn thức, nhĩ thức, tỵ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức. Khi mới nhập thai thì 6 thức này còn chưa sinh ra.
[2] Chú thích của dịch giả: “Thiên Trúc” là chỉ nước Ấn Độ xưa. Nguyên Ấn Độ cổ gọi là Hindu, người Hán dịch chữ Hindu này, đã dùng hai chữ “Thiên Trúc”, nghe khác âm ngày nay, là vì khi ấy phụ âm đầu đ- còn chưa được biến đổi thành âm tr- như bây giờ. Thời Bồ Tát Huyền Trang dịch kinh, chữ Trúc còn đang đọc là Độc.
[3] Chú thích của dịch giả: “Trái giáo bội lý” là trái ngược với nội dung thánh giáo lượng trong kinh Phật và trái ngược với sự thực chân lý.
Lượt xem trang: 0